Thứ Năm, 11 tháng 9, 2014
Thứ Hai, 8 tháng 9, 2014
Về thăm Tây Bắc
Trập trùng núi, trập trùng mây
Hương rừng ngát thoảng, ngất ngây hương rừng
Mộc Châu thảm cỏ thơm lừng
Ngọt ngào dòng sữa mẹ giành cho con
Hồ đầy nước ngập sườn non
Sơn La thủy điện, mốc son nhất vùng 3
Cô tiên bên suối, bìa rừng
Tóc mây em thả cháy lòng tình anh
Pha Đin bát ngát ngàn xanh
Vang hò kéo pháo âm thanh thuở nào
Mường Phăng 4 mãi mãi tự hào
Chỉ huy chiến dịch, lệnh trao chiến trường
Quê hương biết mấy yêu thương
Hoa Ban trắng đón, vui đường vãng thăm
Điện Biên chiến thắng ngoại xâm
Bảng vàng lịch sử ngàn năm sáng ngời.
03.08.2014
_____________________
3 thủy điện Sơn La có công suất lớn nhất thủy điện đông nam Á
4 hầm sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên đại tướng Võ Nguyên Giáp ở Mường Phăng.
Người còn sống mãi
(Kính viếng hương
hồn đại tướng Võ Nguyên Giáp)
Trải qua hai cuộc chiến chinh
Người là
anh cả trọn tình nước non
Điện Biên “đánh chắc 1…” thắng giòn
“…bất
ngờ, chắc thắng 2 ” kinh hồn ngoại xâm
Người là đại tướng của dân
Đảng
giao mọi việc…bao lần xứng tên
Kiệt
tài nhân đức thánh hiền
Anh
hùng dân tộc sáng nền quốc gia
Giữ gìn dòng máu ông cha
Ra
đi để lại trường ca cho đời
Năm
châu kính trọng nhớ Người
Muôn
ngàn dân Việt viếng lời tôn vinh
Người về đất mẹ Quảng Bình
Chăm lo
cuộc sống mưu sinh dân lành.
15.10.2013
_________________________
1
“ đánh
chắc, thắng chắc” là tư tưởng chỉ đạo của tướng Giáp trong chiến
dịch Điện Biên Phủ năm 1954.
2 “ thần tốc,táo bạo, bất ngờ, chắc
thắng” là tư tưởng của chiến dịch giải phóng Sài Gòn, chiến dịch
Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975.
Thông tin tác giả
Họ và tên: Phạm Văn Khảo
Năm
sinh : 1952
Quê quán : Xã Giao Xuân, Giao
Thủy, Nam Định
Thường trú : 447 Nguyễn Đức Cảnh,
Quang Hanh, Cẩm Phả, Quảng Ninh
Điện
thoại : 0948.327.856
Gmail :
phamvankhao1952@gmail. com
Hội viên :
·
Hội thơ đường Việt
Nam - CN Hạ Long
·
CLB thơ Việt Nam
- Chi nhánh Cẩm Phả
·
CLB thơ TP Cẩm Phả
·
CLB thơ phường
Quang Hanh, Hà Tu.
Thơ đã xuất bản :
·
In riêng :
- Hoa đời - NXB hội nhà văn 2012
- Tiếng lòng - NXB văn học 2014
·
Thơ in chung nhiều
tuyển tập.
Tiếng lòng - một thi phẩm đi vào lòng người
(Đinh
Xuân Yên)
Thi
phẩm “Tiếng lòng” của Phạm Văn Khảo ấn hành vào đầu năm 2014; đây là tập thơ
thứ hai anh trình làng. Với không gian, tâm trạng đặc biệt và không gian hiện
thực rộng lớn; từ những vùng quê trong cả nước được tác giả sáng tác trực tiếp.
Từ những chuyến đi trên bao dặm dài thiên lý, cũng có khi đồng hiện, vực dậy từ
những miền ký ức gần và ký ức xa nên chân thật và xúc động. Qua những trang thơ
da dạng và giàu thi cảm Phạm Văn Khảo đã tự hiện hữu mình là một chủ thể hiện
sinh ; luôn thao thức về những điều bình dị
mà sâu sắc của tâm hồn và nhân sinh, thế sự nhân vật trữ tình. Tác giả
luôn ở ngôi vị thứ nhất để tâm sự, sẻ chia và đối thoại với cuộc sống và người
thân. Có lúc anh tự thoại, tự vấn để biểu hiện niềm vui và nỗi buồn của chính
mình, nhận thức về những ân nghĩa quanh đời đã giúp anh biết yêu thương, đồng
cảm với từng hiện thực trải qua.
Trong
bài “ Phúc” tác giả đã phơi trải lòng mình với muôn nơi, với hoa trái, với con
người, với bạn bè… Thơ đã giúp anh lấy lại sự cân bằng trong tâm hồn, giữa cuộc
sống căng thẳng ồn ào nơi đô thị. Chẳng hiểu anh lấy thời gian và cảm hứng từ
đâu viết cả hơn trăm bài thơ, mà bài nào cũng mượt mà cảm xúc, bài nào cũng
phảng phất tâm hồn rộng mở, thoáng đãng như hương lúa ngày mùa. Phải chăng bằng
những câu thơ trữ tình hào hoa, yêu quê hương đất nước đã thấm vào lòng tác
giả; như lời ru của bà, của mẹ thấm vào tâm hồn anh thời thơ ấu đến bây giờ
phát tiết thành thơ :
“Một chấm sao băng sáng đất trời
Một gian nhà nhỏ rộng trùng khơi
Một lời tri
kỷ tâm luôn nhớ
Một chút cho nhau sống để đời”
(Phúc)
Được
đi nhiều nơi, học được nhiều điều; các đề tài và cách thể hiện của anh càng mới
hơn, có nhiều từ ngữ hay hơn. Điều quan trọng thơ đã là mối dây ràng buộc ấm nóng,
thân thiết với người yêu thơ và làm thơ. Thơ đã làm cho cuộc sống của họ đẹp
hơn, thăng hoa hơn mỗi ngày.
Trong
thơ tác giả còn miêu tả được cái đẹp của quê hương, cái hùng vĩ của đất trời,
cái dũng cảm vĩ đại của những anh hùng đã hiến dâng cả cuộc đời mình cho dân
tộc :
“…Người là đại tướng của dân
Đảng giao mọi việc bao lần xứng tên
Kiệt
tài nhân đức thánh hiền
Anh hùng dân tộc sáng nền quốc gia”…
(Người còn sống mãi)
Bài
thơ “ Có em ” anh thể hiện chút bâng khuâng, lãng mạn của một tâm hồn đa cảm.
Tác giả mượn thiên nhiên để tự mình cảm nhận vẻ đẹp trong xanh, ngọt lành và
bóng hình em trong tâm tưởng. Qua cảnh và người vợ yêu, tác giả đã miêu tả một
cách vô bờ như vừa thực, vừa ảo; vừa tri kỷ, tri âm đẻ cuối cùng hiện thực về
nỗi thương nhớ đầy vơi, tràn trề hạnh phúc.
“ Em là nụ biếc của đời
Có em ! anh mới rạng ngời là anh
Là dòng
suối mát trong xanh
Gom mưa, gom nắng, ngọt lành sữa thơm”…
(Có
em)
Những
thắng cảnh quê hương đất nước mà thi sĩ có điều kiện viếng thăm, thơ anh đã thả
hồn vào những hang đá, những mái chùa; tất cả đều mong manh, hư ảo. Một khoảnh
khắc được gặp lại, được in vào ký ức bao giờ cũng cháy bỏng mãnh liệt trong tâm
hồn thi sĩ.
“Dào dạt thuyền em hát vọng xa
Thướt tha bóng liễu dáng hiền hòa
Nam Giao cầu phúc trời sinh lộc
Thôn Vĩ ươm mầm đất trổ hoa”…
(Thăm Huế)
Thi
sĩ đã chắc tay, linh hoạt trong cách gieo vần được cả tình và ý; tính nhạc phụ
thuộc vào cách ngắt nhịp, phối thanh vần điệu, làm cho dòng thơ vừa du dương,
nhẹ nhàng, lắng đọng phù hợp với hành trình tìm về ngôn ngữ của thơ.
Thi
sĩ là người đa cảm. Không chỉ nhớ người con gái Huế mà còn nhớ bến đợi Tràng
An, cõi tiên Yên Tử…
“…Thuyền hoa khách vãng hòa sông núi
Bến đợi nhớ ai ngóng tháng
ngày “
(Tràng An)
“…Vượt dốc dòng người hiền vãng cõi tiên
Tâm hồn thoáng đãng tới am
thiền”…
(Về Yên Tử)
Dường
như nơi nào nhà thơ dừng chân là nơi đó có bóng hình của em. Hình tượng “em”
đâu phải chỉ là bóng dáng thực của một giai nhân mà còn là nàng thơ của thi sĩ.
“Em” trở thành nỗi niềm để nhà thơ bày tỏ “tiếng lòng” của mình trước những vẻ
đẹp của đất nước, của từng vùng miền. Huế, Tràng An, Hạ Long… nên thơ, rêu
phong hơn với những hình ảnh hết sức bình dị; thi sĩ đã thả hồn vào những dãy
núi, những mái chùa cong buông hồi chuông tín mộ, thật ưu tư và rạo rực lòng
người.
Viết
về quê hương, thi sĩ lấy chủ đề người mẹ làm chủ đạo. Ai cũng có mẹ; nơi mẹ đẻ
là nơi sâu thẳm; những tháng ngày thơ ấu nhọc nhằn, những kỷ niệm buồn vui mà
cả cuộc đời thi hữu không bao giờ phai mờ; là nơi xuất phát điểm của nỗi nhớ.
Mẹ chính là những gian khó, nhọc nhằn, long đong và xa xót; Mẹ tảo tần, thủy
chung hy sinh cùng năm tháng nuôi đàn con học hành, khôn lớn; Đôi bàn tay mẹ
chai sạn vì con, vì chông, vì đất nước không gì bù đắp nổi.
“Nồng nàn tiếng gió trong veo
Ngọt lời ru mẹ, trăng theo bên thềm
Cho con no
giấc ngủ êm
ầu ơ ! sâu lắng trong đêm vắn dài”…
(Lời ru của mẹ)
“Lời ru chạm tới vì sao
Cái cò, cái vạc đi vào trong tâm”
(Điều mẹ mong)
“…Cúi đầu khấn mẹ sớm mai
Miền chín đỏ không phai tấc lòng”,,,
(Mùa báo hiếu)
Mừng
anh, thi phẩm ‘Tiếng lòng” của anh đã khơi dậy hồn thơ trong tôi. Xin được viết
mấy dòng thơ tặng anh :
- Thơ hay như
lửa, nó mang sứ mệnh cháy trong lòng
- Thơ hay như nước, nó có phận sự chảy từ ít đến nhiều
- Thơ hay như hạt, nó có trách nhiệm ấp ủ và nảy nở
- Thơ hay như mắt, nó biết mở ra những tâm hồn
- Thơ hay như mùa, nó biết tôn trọng những luân khúc để còn lưu giữ bản
sắc của quá khứ
- Thơ hay, như người tình thấu hiểu nhau từ chân tơ kẽ tóc, cho nhau cả
dịu êm và rên xiết, mưa bụi và cuồng phong
- Thơ hay như thơ biết chiếm lĩnh phần hồn của thiên hạ, bằng sự cao cả
của tâm hồn và minh triết của trí tuệ
- Thơ hay, không gì khác, là sự gặp gỡ thiên định của thăng hoa cảm xúc
với lóe sáng trí tuệ
Ước
mơ và ý định của thi sĩ thường không phải lúc nào cũng đồng hành cùng sự nỗ lực
của chính mình. Vì vậy, những gì mà anh gửi gắm qua thi phẩm “Tiếng lòng” là
đáng quý, đáng trân trọng. Người đọc có quyền đòi hỏi và hy vọng sự vượt trội
của anh ở các tập thơ tiếp theo.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)